Thông tin chỉ đạo, điều hành
Ngày 04/8/2021, Cơ quan Liên hợp quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UN Women) phối hợp với Viện Khoa học Lao động và Xã Hội (Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội), Vụ Dân tộc thiểu số (Ủy ban Dân tộc), với sự hỗ trợ tài chính của Đại sứ quán Ireland tại Việt Nam đã công bố báo cáo "Số liệu về phụ nữ và nam giới các dân tộc ở Việt Nam giai đoạn 2015-2019" và Tóm tắt chính sách: "Các vấn đề giới trong vùng dân tộc thiểu số (DTTS) ở Việt Nam"
Nội dung hai báo cáo được công bố gồm số liệu về phụ nữ và nam giới các dân tộc ở Việt Nam giai đoạn 2015-2019, các kết quả phân tích giới và các khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong vùng DTTS ở Việt Nam. Các nguồn số liệu, thông tin trong hai báo cáo được tính toán từ kết quả Điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế-xã hội của 53 DTTS ở Việt Nam do Tổng cục thống kê phối hợp với Ủy ban Dân tộc thực hiện năm 2015 và năm 2019. Hai báo cáo tập trung vào 07 chủ đề chính gồm: Dân số; Tiếp cận cơ sở hạ tầng và tài sản; Việc làm, thu nhập; Giáo dục và đào tạo; Văn hoá và xã hội; Y tế và vệ sinh môi trường, và Cán bộ, công chức là người DTTS.
Kết quả phân tích số liệu tách biệt giới tính trong giai đoạn 2015-2019 trong Báo cáo cho thấy những thành tựu nổi bật về bình đẳng giới trong các vùng DTTS&MN như: tỷ lệ tảo hôn của người DTTS đã giảm 4,7 điểm phần trăm; thu nhập bình quân một nhân khẩu/tháng của người DTTS năm 2018 đã tăng mạnh 1,8 lần so với năm 2014 và thu nhập của hộ gia đình DTTS có chủ hộ là nữ luôn cao hơn so với chủ hộ là nam; tỷ lệ đi học đúng tuổi của trẻ em trai và gái DTTS tăng nhanh, đạt lần lượt 84,3% và 86,6%; tỷ lệ người DTTS tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,5% trong đó không có sự khác biệt giữa nam và nữ...
Tỷ lệ tảo hôn của người DTTS theo giới tính và vùng KT-XH năm 2018
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Báo cáo cũng chỉ rõ một số vấn đề giới vẫn tiếp tục tồn tại trong vùng DTTS&MN như: tỷ lệ tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống chung ở 53 DTTS tuy có giảm, tuy nhiên mức giảm chưa đồng đều và cá biệt vẫn tiếp tục tăng trong một số dân tộc; lao động nữ DTTS làm các công việc không ổn định, dễ bị tổn thương nhiều hơn so với lao động nam DTTS và lao động nữ người Kinh; tỷ lệ phụ nữ DTTS từ 10-49 tuổi sinh con tại cơ sở y tế đạt 86,4%, tuy nhiên vẫn thấp hơn đáng kể so với phụ nữ dân tộc Kinh là trên 99%.
Các chương trình hợp tác giữa Đại sứ quán Ireland với UN Women nhằm đảm bảo các chính sách và chương trình của Chính phủ hỗ trợ DTTS, luôn có sự chú trọng đặc biệt đến các khía cạnh về giới và ưu tiên trao quyền cho phụ nữ. Các vấn đề bình đẳng giới đan xen với các yếu tố dân tộc thường khó giải quyết và đòi hỏi cách tiếp cận toàn diện cũng như cần những cam kết đầu tư nguồn lực tài chính trong những năm tới. Các Báo cáo này sẽ góp phần lấp khoảng trống về số liệu thống kê giới trong các DTTS Việt Nam và đóng góp vào quá trình xây dựng và thực hiện chính sách đối với vùng DTTS, góp phần thúc đẩy bình đẳng giới một cách hiệu quả và toàn diện như đã cam kết về thực hiện các mục tiêu Phát triển bền vững ở Việt Nam đến năm 2030.
Trích nguồn Ủy ban Dân tộc