TIN TRONG NƯỚC
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước số 35/2009/QH12 (gọi tắt là Luật năm 2009) được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 18/6/ 2009 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010.
Sau hơn 07 năm thi hành, Luật năm 2009 hiện hành bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, không còn phù hợp với tình hình của đất nước ta trong giai đoạn phát triển mới, cùng với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đến nay đã có nhiều thay đổi về yêu cầu bảo đảm, bảo vệ quyền con người, về tình hình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế cũng như sự phát triển của hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp, cải cách hành chính trên đất nước ta. Do vậy, ngày 20/6/2017, Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước số 10/2017/QH14 (gọi là Luật năm 2017), đã được Chủ tịch nước ban hành Lệnh công bố số 07/2017/L-CTN, ngày 03/7/2017 và chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2018.
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng về Nhà nước pháp quyền, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đây là điểm tiến bộ của chúng ta, bởi không phải nước nào cũng có luật này, kể cả một số nước phát triển.
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 gồm có 09 chương với 78 điều và có rất nhiều điểm mới và tiến bộ trên nhiều mặt so với Luật 2009. Cụ thể là:
1. Về đối tượng yêu cầu bồi thường
Luật năm 2017 đã quy định rất cụ thể và mở rộng đối tượng yêu cầu bồi thường, bao gồm: Người bị thiệt hại, người thừa kế của người bị thiệt hại, tổ chức bị thiệt hại, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ của tổ chức bị thiệt hại đã chấm dứt tồn tại; người đại diện đương nhiên; người được ủy quyền (Điều 2).
2. Về nguyên tắc bồi thường của Nhà nước
Luật năm 2017 đã bổ sung 01 điều (Điều 4) quy định về nguyên tắc bồi thường của Nhà nước. Theo đó, việc giải quyết yêu cầu bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại. Luật đã mở rộng nguyên tắc giải quyết bồi thường, cho phép người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ngay ra tòa án khi có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự; kết hợp giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự tại Tòa án đối với yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự. Người bị thiệt hại có quyền lựa chọn cơ chế giải quyết bồi thường phù hợp nhưng khi cơ quan giải quyết bồi thường đã thụ lý yêu cầu bồi thường thì người đó không được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khác giải quyết bồi thường.
3. Về phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luật năm 2017 đã bổ sung phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong các lĩnh vực để bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013, các bộ luật, luật hiện hành; đồng thời cũng bảo đảm quyền, lợi ích của công dân, cụ thể:
3.1. Trong hoạt động quản lý hành chính (Điều 17):
Bổ sung 02 trường hợp được bồi thường do bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính trái pháp luật là buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm (Đểm b, khoản 3) và buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng phẩm (Đểm c, khoản 3);
Bổ sung 01 trường hợp được bồi thường khác, do bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trái pháp luật giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điểm a, khoản 5) gây ra.
Bổ sung một số trường hợp được bồi thường khác: do không áp dụng hoặc áp dụng không đúng quy định của Luật tố cáo các biện pháp bảo vệ người tố cáo khi người đó yêu cầu (Khoản 6); do thực hiện hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin về cố ý cung cấp thông tin sai lệch mà không đính chính và không cung cấp lại thông tin (Khoản 7); do áp dụng trái pháp luật việc hoàn thuế (Khoản 9); do ra quyết định xử lý kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật đối với công chức từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống (Khoản 14).
3.2. Trong hoạt động tố tụng hình sự (Điều 18):
Bổ sung trường hợp được bồi thường do người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp(Khoản 1); do pháp nhân thương mại bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án oan (Khoản 9).
3.3. Trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính (Điều 19):
Luật năm 2017 bỏ lỗi cố ý đối với trường hợp ra bản án, quyết định trái pháp luật và tách thành 02 khoản riêng biệt, quy định cụ thể hơn căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người đã ra bản án, quyết định.
3.4. Trong hoạt động thi hành án hình sự (Điều 20):
Bổ sung 01 trường hợp được bồi thường là: Không thực hiện quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện của Tòa án đối với người bị kết án phạt tù (Điểm d, khoản 3).
3.5. Trong lĩnh vực thi hành án dân sự (Điều 21):
Luật bỏ lỗi cố ý đối với trường hợp ra các quyết định về thi hành án và trường hợp tổ chức thi hành án các quyết định về thi hành án.
4. Về thiệt hại được bồi thường
Luật 2017 đã sửa đổi, bổ sung toàn diện các quy định về thiệt hại được bồi thường, trong đó đáng chú ý là bổ sung các thiệt hại được bồi thường phát sinh trong thực tế chưa được Luật 2009 quy định như: thiệt hại được bồi thường là khoản tiền phạt theo thỏa thuận trong giao dịch dân sự, kinh tế do không thực hiện được các giao dịch dân sự, kinh tế; căn cứ tính mức lãi suất; lượng hóa một số thiệt hại được bồi thường như thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút (Điều 24); thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết (Điều 25); thiệt hại về vật chất do sức khỏe bị xâm phạm (Điều 26).
Đối với thiệt hại về tinh thần (Điều 27): Luật 2017 bổ sung một số thiệt hại về tinh thần như: trong trường hợp áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Khoản 1); trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp (Điểm a, khoản 3) và trường hợp công chức bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật (Khoản 6). Tăng mức bồi thường thiệt hại về tinh thần đối với các trường hợp bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự; trường hợp thiệt hại về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm.
5. Về cơ quan giải quyết giải quyết bồi thường (Chương IV)
Luật 2007 quy định cụ thể hơn về cơ quan giải quyết bồi thường trong các hoạt động quản lý hành chính, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự đồng thời xác định cơ quan giải quyết bồi thường trong một số trường hợp cụ thể.
Ngoài ra, Luật năm 2017 còn bổ sung cơ quan giải quyết bồi thường là Tòa án trong trường hợp kết hợp giải quyết bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính đối với yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự. Riêng đối với quy định về cơ quan giải quyết bồi thường trong trường hợp Viện Kiểm sát quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung (trường hợp Viện Kiểm sát chưa ra cáo trạng để truy tố) mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án thì Điều 34 và Điều 35 đã có quy định để phân rõ trường hợp nào thì thuộc trách nhiệm của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trường hợp nào thì thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát.
6. Về phục hồi danh dự
Liên quan tới phục hồi danh dự thì cơ quan Nhà nước phải chủ động phục hồi danh dự mặc dù người bị thiệt hại không hoặc chưa yêu cầu. Luật năm 2017 đã sửa đổi, bổ sung quy định về việc phục hồi danh dự cho người bị thiệt hại theo hướng: Nhà nước chủ động phục hồi danh dự cho người bị thiệt hại; bổ sung đối tượng được phục hồi danh dự; quy định cụ thể hình thức tiến hành phục hồi danh dự, thủ tục, thời hạn thực hiện tổ chức trực tiếp xin lỗi, cải chính công khai và đăng báo xin lỗi, cải chính công khai.
7. Về trách nhiệm hoàn trả
Nếu như Luật năm 2009 quy định trong tố tụng hình sự, nếu người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm hoàn trả thì Luật năm 2017 quy định người thi hành công vụ nếu có lỗi gây thiệt hại thì phải có nghĩa vụ hoàn trả. Luật năm 2017 còn tăng mức hoàn trả với tỷ lệ tương ứng mức độ lỗi và số tiền mà Nhà nước đã bồi thường, theo đó: Người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây thiệt hại nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì mức hoàn trả từ 30 đến 50 tháng lương của người đó; người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây thiệt hại thì mức hoàn trả từ 03 đến 05 tháng lương của người đó.
8. Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác bồi thường nhà nước
Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước, Luật năm 2017 đã bổ sung một Chương (Chương VIII) về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác bồi thường nhà nước, trong đó quy định trách nhiệm của Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án trên phạm vi cả nước. Ở địa phương thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường tại địa phương (Điều 73). Đồng thời, Luật cũng quy định trách nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong việc phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước.
Ngoài ra, Luật năm 2017 còn bổ sung một số quy định về các văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, về thủ tục giải quyết bồi thường, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác bồi thường nhà nước.
Luật năm 2017 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2018. Các trường hợp yêu cầu bồi thường đã được cơ quan giải quyết bồi thường thụ lý trước thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành nhưng chưa giải quyết hoặc đang giải quyết thì tiếp tục áp dụng quy định của Luật năm 2009 để giải quyết. Kể từ ngày Luật năm 2017 có hiệu lực thi hành, các trường hợp được bồi thường theo quy định của Luật năm 2009 mà còn thời hiệu theo quy định của Luật năm 2009 nhưng chưa yêu cầu Nhà nước bồi thường hoặc đã yêu cầu nhưng chưa được thụ lý giải quyết thì áp dụng quy định của Luật này để giải quyết./.
Nguyễn Văn Khánh